Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá theo quy định mới?

Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất. Để thực hiện việc bán đấu giá hàng hóa thông qua tổ chức đấu giá, người có hàng hóa đấu giá phải ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá hàng hóa.

1. Chủ thể tham gia đấu giá hàng hoá là ai?

Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất.

Căn cứ tại Điều 186 và Điều 187 Luật Thương mại 2005, những chủ thể tham gia hoạt động đấu giá hàng hoá được xác định gồm:

– Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá.

– Người bán hàng là chủ sở hữu hàng hoá, người được chủ sở hữu hàng hoá uỷ quyền bán hoặc người có quyền bán hàng hoá của người khác theo quy định của pháp luật.

– Người tham gia đấu giá hàng hoá là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá.

– Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được người tổ chức đấu giá uỷ quyền điều hành bán đấu giá.

Việc bán đấu gia hàng hoá được thực hiện theo một trong hai phương thức sau đây:

– Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng;

– Phương thức đặt giá xuống là phương thức bán đấu giá, theo đó người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.

Như vậy cá nhân tự mình hoặc có thể thuê tổ chức đấu giá hàng hoá, sản phẩm của mình, việc tổ chức đấu giá hàng hoá cần phải thực hiện theo đúng quyền và nghĩa vụ của người tổ chức, cụ thể tại mục 2 dưới đây:

2. Quyền và nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá được quy định như thế nào?

Người tổ chức đấu giá hàng hoá cần phải nắm được quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định  tại Điều 189 Luật Thương mại 2005 cụ thể như sau:

Trừ những trường hợp có thoả thuận khác, người tổ chức đấu giá có các quyền sau đây:

– Yêu cầu người bán hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá, tạo điều kiện cho người tổ chức đấu giá hoặc người tham gia đấu giá kiểm tra hàng hoá đấu giá và giao hàng hoá được bán đấu giá cho người mua hàng trong trường hợp người tổ chức đấu giá không phải là người bán hàng đấu giá;

– Xác định giá khởi điểm trong trường hợp người tổ chức đấu giá là người bán hàng đấu giá hoặc được người bán hàng uỷ quyền;

– Tổ chức cuộc đấu giá;

– Yêu cầu người mua hàng thực hiện việc thanh toán;

– Nhận thù lao dịch vụ đấu giá do người bán hàng trả theo quy định tại Điều 211 của Luật này.

Đối với nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá được quy định tại Điều 190 Luật Thương mại 2005 cụ thể như sau:

– Tổ chức đấu giá hàng hoá theo đúng nguyên tắc, thủ tục do pháp luật quy định và theo phương thức đấu giá thoả thuận với người bán hàng.

– Thông báo, niêm yết công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên quan đến hàng hoá đấu giá.

– Bảo quản hàng hoá đấu giá khi được người bán hàng giao giữ.

– Trưng bày hàng hoá, mẫu hàng hóa hoặc tài liệu giới thiệu về hàng hóa cho người tham gia đấu giá xem xét.

– Lập văn bản bán đấu giá hàng hoá và gửi đến người bán hàng, người mua hàng và các bên có liên quan quy định tại Điều 203 của Luật này.

– Giao hàng hóa đấu giá cho người mua phù hợp với hợp đồng tổ chức dịch vụ đấu giá hàng hoá.

– Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá bán đấu giá phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người bán hàng.

– Thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể cả khoản tiền chênh lệch thu được từ người rút lại giá đã trả quy định tại khoản 3 Điều 204 của Luật này hoặc trả lại hàng hoá không bán được cho người bán hàng theo thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận thì phải thanh toán tiền cho người bán hàng chậm nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận được tiền của người mua hàng hoặc phải trả lại ngay hàng hoá trong thời hạn hợp lý sau cuộc đấu giá.

3. Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá.

Đấu giá là phương pháp bán hàng hoá và dịch vụ bằng cách xướng giá tối thiểu, sau đó để cho mọi người trả giá, người nào trả giá cao nhất sẽ mua được hàng. Tổ chức đấu giá tài sản sẽ là nơi diễn ra các cuộc đấu giá tài sản. Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó cá nhân, tổ chức có hàng hoá những không tự tổ chức đấu giá hàng hoá thì có thể lựa chọn ra một tổ chức đấu giá phù hợp để ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá để có thể bán được hàng với giá trị cao và chi phí tiết kiệm.

Hình thức của hợp đồng: Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa thương mại được quy định cụ thể tại Điều 193 Luật thương mại 2005, theo đó, hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định của Luật Đấu giá tài sản 2016.

Đối với các trường hợp bán đấu giá hàng hoá thông qua trung gian thì việc lập hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá là thủ tục đầu tiên trong trình tự bán đấu giá hàng hoá. Người bán đấu giá và người có hàng hoá ký kết với nhay hợp đồng dịch vụ đấu giá, đây được coi như một văn bản uỷ quyền để người bán đấu giá  tiến hành bán đấu giá.

Căn cứ tại tại Khoản 2 Điều 193 Luật Thương  mại 2005 quy định:

“2. Trường hợp hàng hoá được đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá phải được sự đồng ý của bên nhận cầm cố, thế chấp và bên bán phải thông báo cho các bên tham gia đấu giá về hàng hóa đang bị cầm cố, thế chấp.”

Nghĩa vụ thông báo của bên bán cho các bên tham gia đấu giá về hàng hóa đang bị cầm cố, thế chấp được quy định tại Điều 195 Luật Thương mại 2005 như sau:

“Điều 195. Thông báo cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến hàng hóa là đối tượng cầm cố, thế chấp

Trường hợp hàng hoá là đối tượng cầm cố, thế chấp, thì đồng thời với việc niêm yết đấu giá hàng hoá, người tổ chức đấu giá phải thông báo cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong thời hạn chậm nhất là bảy ngày làm việc trước khi tiến hành bán đấu giá hàng hóa đó theo quy định tại Điều 197 của Luật này.”

 

 

Trong thời hạn chậm nhất là 07 ngày trước khi tiến hành bán đấu giá theo quy định của pháp luật người tổ chức đấu giá phải thông báo cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong trường hợp hàng hoá là đối tượng cầm cố, thế chấp.

Theo Khoản 3 Điều 193 Luật Thương mại 2005 quy định:

“3. Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá thì hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá được giao kết giữa người nhận cầm cố, thế chấp với người tổ chức đấu giá.”

Như vậy, hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá sẽ được giao kết giữa người nhận cầm cố, thế chấp với người tổ chức đấu giá khi trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá.

Người bán hàng cần xác định giá khởi điểm, trong trường hợp người tổ chức đấu giá được uỷ quyền xác định khởi điểm thì phải thông báo cho người bán hàng trước khi niêm yết việc bán đấu giá.